Về
dân tộc Mông ở tỉnh Yên Bái
Dân tộc Mông ở
tỉnh Yên Bái có khoảng 55.000 người, chiếm 8,1% dân số toàn tỉnh, cư trú tập
trung tại 40 xã thuộc 6 huyện: Mù Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn, Văn Yên, TRấn
Yên và Lục Yên. Tại huyện Mù Cang Chải đồng bào Mông cư trú ở 13/14 xã thị
trấn, chiếm 95% dân số của huyện, huyện Trạm Tấu10/12 xã, thị trấn, chiếm 70%
dân số của huyện. Cả tỉnh có 22/40 xã hoàn toàn là người mông. Các xã còn lại
đồng bào sống xen kẽ với các dân tộc anh em khác.
Địa bàn sinh
sống của đồng bào đều là các xã vùng cao, có địa bàn hiểm trở, xa sôi, hẻo
lánh, độ dốc cao, giao thông đi lại rất khó khăn.
Dân tộc Mông ở Yên bái gồm ba nhóm chính là: Mông Hoa
(Mông lênhl) Mông đen (Mông
đuz) và Mông trắng (Mông đơưz), trong đó có Mông đen là đông hơn cả.
Những nhóm
Mông đầu tiên di cư đến Việt Nam và tỉnh Yên Bái có khoảng 300 năm: Đầu tiên
đến huyện Mù Cang Chải, lập kế sinh nhai lấy tên là "Xáo Mông" sau đó
mở rộng địa bàn sinh sống sang huyện Trạm Tấu, Văn Chấn…gần đây có một phần
đông đồng bào Mông di chuyển từ các tỉnh Lào cai, Hà Giang và Sơn La sang sinh
sống ở tỉnh Yên Bái.
Do vùng đồng
bào Mông sinh sống là: vùng cao khô hạn
về mùa đông lạnh giá kéo dài và có sương muối. Ở hai huyện phía tây của
tỉnh là: Trạm Tấu và Mù Cang Chải có ảnh hưởng của gió tây khô nóng, đã ảnh hưởng
rất lớn đến mùa vụ và năng suất cây trồng..
Trước đây người
Mông Yên Bái chỉ trồng một vụ lúa do điều kiện canh tác rất khó khăn. Mấy năm
gần đây đồng bào đã biết ứng dụng khoa học kỹ thuật. Cải tạo đất: Được sự đầu tư
của nhà nước cho các công trình kỹ thuật, thuỷ lợi, nên số ruộng hai vụ lúa đã
dần dần tăng lên (hiện nay có khoảng 30% ruộng nước hai vụ).
Đồng bào Mông
có kinh nghiệm làm ruộng bậc thang treo leo trên đỉnh núi, có mảnh chỉ có
một,hai đường bừa.
Trước đây ở
tỉnh Yên Bái có tập quán trồng cây thuốc phiện , là sản phẩm hàng hoá lâu đời,
sản lượng thuốc phiện thu hoạch mỗi năm rất lớn, nhưng đồng thời cũng gây hậu
quả xấu về con người, kinh tế-xã hội và môi trường sống, chấp hành và thực hiện
quyết định 06 của Chính Phủ đồng bào Mông ở Yên Bái đã bỏ tập quán trồng, buôn
bán, toàng trữ và hút thuốc phiện. Quá trình bỏ cây thuốc phiện gắn liền với
chuyển đổi kinh tế, cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Đồng bào Mông Yên Bái đang nỗ
lực phát huy khả năng cần cù lao động cải tạo đất thâm canh tăng vụ, đưa giống
mới vào sản xuất, bước đầu cho năng xuất khá sản lượng lương thực ngày càng
tăng.
thế mạnh của vùng đồng bào Mông ở Yên Bái là: Nghề rừng,
chăn nuôi đại gia súc, cây đặc sản và cây công nghiệp ngắn ngày.
Hiện tại đồng
bào Mông đã khai thác được một số sản phẩm có giá trị như: Chè tuyết, sơn tra,
thảo quả, nuôi ong và chăn nuôi đại gia súc, có nhiều điển hình như: phát triển
ruộng bậc thang kết hợp và bảo vệ rừng ở nhiều xã thuộc hiện Mù Cang Chải; khai
hoang ruộng nước với phát triển cây chè đặc sản vùng cao như ử xã Suối Giàng,
Suối Bu (huyện Văn chấn) Púng luông, Nặm Khắt ( Mù Cang Chải) xã Phình Hồ (Trạm
Tấu) làm ruộng bậc thang, nương cạn với phát triển cây quế ở xã Nà hẩu, Mỏ
vàng(huyện Văn Yên)…Đời sống đồng bào Mông Yên Bái đã thực sự đổi mới, từng bước
ổn định và có bước phát triển.
Người Mông có
tập tục người cùng họ khi đã nhận nhau được xem như anh em ruột thịt và không được
kết hôn với nhau. Ở mỗi dòng họ có những kiêng kỵ và nghi lễ cúng bái khác nhau, ví dụ họ Giàng
kiêng không ăn tim gia súc, gia cầm; họ Lý kiêng ăn lá lách.
Người Mông Yên
Bái thờ cúng tổ tiên ở gian giữa nhà;
nói thờ cúng chỉ là một miếng giấy hình chữ nhật, khổ rộng 20cm x 30cm,
bàn thờ cách mặt đất khoảng 1.2m đến 1.5m; chỉ có chủ nhà mới được cúng tổ tiên
và chỉ cúng vào dịp năm mới, lễ cơm mới, dịp chữa bệnh.
Lễ tang của người
Mông là tập tục gồm nhiều nghi lễ khác nhau, phản ánh các quan nịêm về lịch sử,
xã hôị, cộng đồng. Người Mông ở Yên Bái có quan niệm thế giới ba tầng:
- Tầng trên trời
là thế giới của tổ tiên.
- Tầng giữa là thế
giới của con người.
- Tầng dứơi lòng
đất là địa ngục, âm phủ.
Người Mông có vốn
nghệ thuật dân gian phong phú vào Mùa xuân… Tết Mông vào tháng 12 dương lịch và
tháng 11 âm lịch. Nghi lễ cưới người Mông đều có tổ chức hát dân ca, múa kèn.
Trong các làn điệu dân ca, đặc biệt là hát lịch sử dân tộc gọi là hát
"Thản chù", hát "Gầu phềnh" trai giá hát trong khi chơi pao
"Ném pao"; hát trong ống có sợi chỉ bịt màng da ếch; trong đám cưới
còn hát đố, hát giải; cùng với hát còn có múa kèn độc đáo; hội "Gầu tào"
múa kèn là nghi lễ mở hội, người Mông còn có các loại nhạc cụ khác như: Đàn
môi, Khèn lá, Kéo nhị và thổi sáo…
Với số lượng
khá đông, cư trú ở vị trí tương đối đặc
biệt, người Mông ở Yên Bái tự hào đóng góp một phần xứng đáng vào phong trào
giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp. Trong lịch sử nguồn gốc dân tộc và quá
trình di dịch cư. Dân tộc Mông vốn là dân tộc có truyền thống đấu tranh chống
giặc với tinh thần bất khuất, kiên cường.
Ngay từ những
năm 1888 đội quân người Mông do Đào Chính Lục là thủ lĩnh, đã bao vây đánh giặc
Pháp ở Tú lệ trên đường chúng dẫn quân vào chiếm đóng Nghĩa Lộ; nuôi dấu cán bộ
cách mạng ở nhiều địa bàn khác nhau, các gia đình tiêu biểu đó là: Gia đình ông
Vàng Mẻ Suế (xã Dế Su Phình) gia đình ông: Giàng Khua Kỷ (xã
Cao Phạ huyện Mù Cang Chải)…
Trong công cuộc
kháng chiến chống Pháp huyện Mù cang chải có 3 đội du kích: Cao phạ,Chế tạo,
Lao chải, gồm 200 chiến sĩ, là căn cứ của các vùng lân cận, phối hợp với bộ đội
chủ lực tiêu diệt 214 tên địch thu hơn 100 vũ khí các loại; xã Cao phạ được
tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.Qua các cuộc kháng chiến người
Mông ở Yên Bái đã kề vai sát cánh cùng các dân tộc anh em chiến đấu góp công
của cho hai cuộc kháng chiến, tham gia dân công hoả tuyến, vận chuyển vũ khí
đạn dược, lương thực cho các chiến trường Đông Bắc, Tây Bắc, chiến trường Lào.
Trong kháng chiến chống Mỹ huyện Mù Cang Chải cử 396 người lên đường chiến đấu
và đóng góp 365 tấn lương thực,chi viện cho chiến trường Miền Nam; cử 3.500
thanh niên sang nước bạn Lào chiến đấu, 27 chiến sỹ đã hy sinh, nhiều chiến sĩ
đã để lại một phần xương máu của mình trên chiến trường. Với những đóng góp của
mình đồng bào Mông ở Yên Bái đã được nhà nước tặng thưởng 348 huân chương và
216 huy chương các loại.
Sau
ngày hoà bình, thống nhất và thực hiện công cuộc đổi mới, cộng đồng người Mông
ở Yên Bái lại không ngừng tham gia sản xuất, phát triển kinh tế, ông Giàng A Thào
(xã Sùng Đô- huyện Văn Chấn) được nhà nước tặng danh hiệu anh hùng Lao động. Người
Mông với ý thức tự chủ cao, đức tin bền vững; nhờ những đức tính này, đồng bào
Mông tồn tại và phát triển trong quá trình biến thiên của lịch sử và vẫn giữ được
bản sắc văn hoá và truyền thống dân tộc qua nhiều thế hệ.